Mô tả rễ nhàu:
[XaBongTriLieu.com] Rễ nhàu chứa glucosid anthraquinonic (morindin), có tinh thể màu vàng cam tan trong nước sôi. Còn có một hỗn hợp anthraglucosid như damnacantal, chất l-metoxyrubiazin, chất morindon và chất l-oxy-2,3-dimetoxy-anthraquinon. Lá cũng chứa chất morindin.
Tính vị, tác dụng của Rể Nhàu:
Dân gian thường dùng rễ nhàu thái mỏng phơi khô sắc uống để trị đau lưng, phong thấp. Nhiều người cũng dùng trái nhàu chín chấm muối ăn với cùng công dụng. Phụ nữ một số vùng còn ăn trái nhàu chín để nhuận trường, hoạt huyết hoặc điều hòa kinh nguyệt.
Một nghiên cứu của Pháp cho thấy, chiết xuất từ rễ nhàu có tác dụng nhuận trường và lợi tiểu nhẹ, làm êm dịu thần kinh, hạ huyết áp kéo dài, ít gây độc và không gây nghiện. Sách Gia y trị nghiệm của Lương y Việt Cúc có ghi rễ nhàu vị đắng, ấm, thông huyết mạch, trừ phong tê nhức mỏi, hạ huyết áp. Trên thực tế, qua kinh nghiệm sử dụng riêng của tác giả hoặc dùng độc vị hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác, rễ nhàu có 2 tác dụng đáng lưu ý: dưỡng tâm an thần và thông kinh hoạt huyết. Thuốc còn giúp hạ huyết áp ở những người huyết áp cao hoặc nâng huyết áp ở những người huyết áp thấp.
Công dụng Rễ Nhàu:
Rễ Nhàu được dùng chữa cao huyết áp, chữa nhức mỏi tay chân và đau lưng, sài uốn ván. Lá Nhàu dùng chữa lỵ, ỉa chảy, cảm sốt và nấu canh ăn cho bổ. Dùng ngoài giã đắp làm lành vết thương, vết loét làm chóng lên da non. Dịch lá được dùng đắp trị bệnh viêm khớp gây đau nhức. Vỏ nấu nước dùng cho phụ nữ sau khi sinh uống bổ. Quả Nhàu chấm với muối ăn làm dễ tiêu hoá, còn dùng làm thuốc điều kinh, trị băng huyết, bạch đới. Quả nướng chín ăn chữa kiết lỵ, ho hen, cảm, dùng tốt cho người bị bệnh đái đường và phù thũng.
Liều dùng: rễ cây nhàu 30-40g; lá 8-10g.
Liều dùng: rễ cây nhàu 30-40g; lá 8-10g.
Một số bài thuốc có rễ nhàu:
Nhức đầu kinh niên, đau nửa đầu: Rễ nhàu 24 g, muồng trâu 12 g, cối xay 12 g, rau má 12 g, củ gấu (sao, tẩm đồng tiện) 08 g. Đổ 500 ml nước, sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày, uống lúc thuốc còn nóng.
Mất ngủ, suy nhược thần kinh, huyết áp cao: Rễ nhàu 24 g, thảo quyết minh (sao thơm) 12 g, rau má 8 g, thổ phục linh 8 g, vỏ bưởi 6 g, gừng sống 3 lát. Đổ 500 ml nước, sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng.
Đau lưng do thận suy, phong hàn thấp xâm nhiễm: Rễ nhàu 12 g, rau ngót 8 g, cối xay 8 g, dây gùi 8 g, ngó bần 8 g, đậu sắn 8 g, tầm gửi cây dâu 8 g, rễ ngà voi 8 g, ngủ trảo 12 g. Đổ 500 ml nước, sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong một ngày, uống lúc thuốc còn nóng.
Rễ Nhàu trị Nhức mỏi, tê bại do phong thấp:
Rễ nhàu 40 g, nghệ xanh 20 g, nghệ vàng 20 g, trái ô-môi 10 g, thiên niên kiện 20 g, vỏ quýt 20 g, quế chi 20 g, đỗ trọng 30 g, vòi voi 40 g, chùm gửi cây dâu 20 g, rượu nếp 2 lít, đường cát trắng 500 g. Ngâm tất cả thuốc vào 2 lít rượu nếp trong 7 ngày. Lọc kỹ bỏ xác. Pha rượu đã lọc với 1 lít nước đường. Mỗi lần uống một ly nhỏ cỡ 30-40 ml. Ngày uống 2 lần. Những người thể tạng nhiệt, hay táo bón, áp huyết cao hoặc đang có các chứng viêm nhiễm không nên dùng.
Nhân dân thường dùng lá làm rau nấu canh lươn ăn cho bổ. Trẻ em cũng thường lấy quả để ăn.
Cách dùng:
Rễ nhàu có thể dùng để sắc uống hoặc ngâm rượu.
Rễ nhàu chặt nhỏ phơi khô, sao vàng (chừng 1/2 kg), ngâm với 2 lít rượu trong vòng 20 ngày, trong bữa ăn uống một ly nhỏ.
Rễ nhàu thái nhỏ phơi khô, mỗi lần 30 - 40 gr nấu đậm uống thay nước cả ngày. Sau một đợt uống từ 10 - 15 ngày, kiểm tra lại tác dụng đối với cơ thể, bớt lượng rễ nhàu từ từ và uống liên tục từ 40 - 100 ngày.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét